(trích trong Sấm Giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ)
Quyển 1: SẤM GIẢNG KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM
Đây là quyển thứ nhất mà Đức Thầy viết trong khoảng tháng 9 năm Kỷ Mão (1939) tại làng Hòa Hảo (912 câu)
105 Bá gia phải rán làm lành,
Niệm Phật cho rành đặng thấy Thần Tiên.
Thương đời trong dạ chẳng yên,
Khắp trong lê thứ thảm phiền từ đây.
Ngày nay thế cuộc đổi xây,
Rán lo tu niệm đặng Thầy cứu cho.
[…]
119 Dương-trần bụng dạ nhiều màu,
Thấy cảnh bên Tàu sao chẳng nghĩ suy.
Lời xưa người cổ còn ghi,
Những việc lạ kỳ nay có hay chưa?
Chưa là với kẻ chẳng ưa,
Chớ người tâm đạo biết thừa tới đâu.
Bá gia mau kíp lo âu,
126 Để sau đối đầu chẳng đặng toàn thây.
[…]
221 Lòng buồn mượn lấy bút nghiên,
Viết cho trần hạ bớt phiền lo tu.
Thương đời chớ chẳng kiếm xu,
Buồn cho bá tánh hết mù tới đui.
Có chi mà gọi rằng vui,
Khắp trong bá tánh gặp hồi gian lao.
Từ đây hay ốm hay đau,
228 Rán tu đem được Phật vào trong tâm.
[…]
800 Nói chuyện bên Tàu máu đổ tuôn rơi.
Cả kêu dân-chúng hỡi ôi !
Sao không thức tỉnh việc đời gần bên.
Khổ đà đi đến như tên,
Rán lo tu niệm tìm nền vinh-hoa.
Vinh này của Đức Phật Bà,
Của Ông Phật tổ ban mà cho dân.
Tu cho nhàn toại tấm thân,
Đừng làm tàn ác xa lần Tiên-bang.
Hát kêu bớ kẻ giàu sang,
Rán lo làm phước làm doan mới là.
Đến lâm cảnh khổ có Ta,
812 Với lịnh Phật Bà cứu vớt dùm cho….
[…]
865 Sau nầy sấu bắt hùm tha,
Xử người tàn bạo vậy mà tại đây.
Đời xưa quả báo thì chầy,
868 Đời nay quả báo một giây nhãn tiền.
Quyển 2 : KỆ DÂN của NGƯỜI KHÙNG
Đây là quyển thứ nhì mà Đức Thầy viết ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939) tại làng Hòa Hảo (476 câu)
1 Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương.
Chẳng qua là Nam Việt vô vương,
Nên tai ách xảy ra thảm thiết.
Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,
Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.
Mới mấy năm sao quá hao mòn,
Mùa màng thất, đói đau không thuốc.
Thương hại bấy lê dân đứt ruột,
Thảm vợ con đói rách đùm đeo.
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,
Thêm gạo lúa lại tăng giá mắt.
Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy Thiên cơ mỗi phút mỗi thay.
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
16.Đường vinh nhục rủi may một lát.
[…]
33 Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Coi là coi được Phật được Trời,
Coi phép lạ của Tiên của Thánh.
Cuộc dương thế ngày nay mỏng mảnh,
Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn.
Phải xả thân tầm Bát Nhã thoàn,
Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt.
Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma Ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.
Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,
Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu.
Chữ Nam mô dẹp dược long sầu,
48 Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.
[…]
133 Việc xảy đến Đây truyền sự thật,
Ấy là lời của Phật giáo khuyên.
Rán nghe lời của kẻ Khùng Điên,
Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh.
Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh,
138 Cõi Ngũ hành chẳng khá réo kêu.
[…]
235 Phải giữ lòng cho được sạch trong,
Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ.
Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà ma yêu quái chật đường.
Chốn hồng trần nhiều nỗi thảm thương,
Làm sao cứu những người hung ác.
Khắp thế giới cửa nhà tan nát,
Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu.
Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,
Nay tận diệt lập đời trở lại.
Khắp lê thứ biến vi thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thượng Nguơn.
Việc Thiên cơ Khùng tỏ hết trơn,
248. Cho trần hạ tường nơi lao lý.
[…]
429 Sổ tội ác thì vô số kể,
Còn làm nhơn thì quá ít oi.
Hội công đồng xem xét hẳn hòi,
Sai chư tướng xuống răn trần thế.
Đau nhiếu chứng dị kỳ khó kể,
Sắp từ nay lao khổ đến cùng.
Kẻ dương gian khó nỗi thung dung,
Người bạo ác không toàn tánh mạng.
Đường đạo lý chớ nên chán nản,
Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm.
Phật Tây Phương thiệt quá xa xăm,
Phải tìm kiếm ở trong não trí.
Sau đến việc sơn băng kiệt thủy,
Khùng thảm thương bá tánh quá chừng.
Nhìn xem trần nước mắt rưng rưng,
444 Cảnh áo não kể sao cho xiết.
[…]
Quyển 3: SÁM GIẢNG
Đây là quyển thứ ba mà Đức thầy đã viết vào tháng 9 năm Kỷ Mão (1939) tại làng Hòa Hảo (612 câu)
38 Dương trần sắp vướng bịnh Trời từ đây,
Khuyên trần sắp liệu bắp khoai.
Cháo rau đở dạ tháng ngày cho qua.
Nhắn cùng bổn đạo gần xa,
Tu hành trì chí mới là liễu mai.
Nguyện cầu qua khỏi nạn tai,
Đặng coi Tiên Thánh lầu đài Quốc vương.
Niệm Phật nào đợi mùi hương,
46 Miễn tâm thành kính Tòa Chương cũng gần.
[…]
71 Lập rồi cái hội Long Hoa,
Đặng coi hiền đức được là bao nhiêu.
Gian tà hồn xác cũng tiêu,
Thảm thương bá tánh chin chiều ruột đau.
Mặc ai tranh luận thấp cao,
Thương trong lê thứ xáo xào từ đây.
Chinh chinh bóng xế về tây,
Đoái nhìn trần thế xác thây ê hề.
Thương trần ta cũng dám thề,
Đặng cho bá tánh liệu bề tu thân.
Tu hành chẳng được đức ân,
Thì ta chẳng phải xác thân người đời.
Phật truyền ta dạy mấy lời,
Đặng cho trần thế thức thời tu thân.
Nào là luân lý Tứ Ân,
86 Phải lo đền đáp xác thân mới còn.
[…]
129 Khuyên người hữu phước giàu sang,
Mau mau làm phước làm doan cho rồi.
Để sau khó đứng khôn ngồi,
Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.
Ai mà ăn ở ngược xuôi,
Bị nơi rắn rít chẳng vui đâu là.
Rắn to tên gọi mãng xà,
Trên rừng nó xuống nó tha dương trần.
Ai mà tu tỉnh chuyên cần,
138 Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho.
[…]
437 Thiên Hoàng mở cửa Các Lân,
Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn.
Mười cửa xem thấy ghê hồn,
Cho trần coi thử có mà hay không?
Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,
Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.
Ấy là đến lúc xuê xang.
Tam Hoàng trở lại là đời Thượng Ngươn.
Khuyên dân long chớ có sờn.
Rán tu thì được xem đờn trên mây,
Người hung chết đất chậc thây,
Nhìn xem bắt thảm ngày rày cho dân.
Mấy người còn dược xác thân,
450 Thì là Đài Ngọc Các Lân mới kề.
[…]
Quyển 4
GIÁC MÊ TÂM KỆ
Đây là quyển thứ tư mà Đức thầy đã viết ngày 20 tháng 9 năm Kỷ Mão (1939) tại làng Hòa Hảo (846 câu)
45 Trong Sấm Giảng nếu ai không hiểu,
Tầm kệ này ta chỉ nẻo đướng.
Quyết dạy trần nên nói lời thường
Cho sanh chúng đời nay dễ biết.
Trời dông gió sái mùa sái tiết,
Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi.
Khuyên dương gian bỏ các việc tồi,
Đặng lo liệu cho tròn phận sự.
Thấy trần thế hãy còn lưỡng lự,
Muống tu mà còn hỡi chần chờ.
[…]
213 Bịnh ôn dịch thường hay ói mửa,
Mà dương trần chẳng chịu kiêng dè.
Qua năm Dê đến lúc mùa hè,
Trong bá tánh biết ai hữu chí.
Ta chịu lịnh Tây Phương thọ ký,
Gìn Nghiệt Long đặng cứu dương trần.
Nên ra đời dạy dỗ ân cần,
Khuyên bá tánh vạn dân liệu lấy.
Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.
Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu núi xương tha thiết.
Trần với thế bây giờ nào biết,
Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường.
Ta bây giờ tu niệm tầm thường,
228 Sau danh thể xạ hương khắp chốn.
[…]
241 Cờ thế giới ngày nay gần thúc,
Nên Phật Tiên phải xuống hồng trần.
Chừng lao xao ác thú non Tần,
Thì Nam Quốc lương dân mới biết.
[…]
473.Thời kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma,
Trời mở cửa Quỉ Vương xuống thế.
Nên Ta mới ra tay cứu tế,
Kẻo chúng sanh bịnh khổ quá chừng.
Sau Quỉ Vương đi đứng nửa lừng,
Thêm tên tuổi chúng sanh nó biết.
Làm đủ cách xuống lên tha thiết,
Ở ngoài đường nó biết tên mình.
Tin cùng không thì cũng mặc tình,
482 Chớ ta lắm công trình dạy dỗ.
[…]