- LỜI NÓI ĐẦU
- CÁCH SỬ DỤNG
- Từ trang 1 đến trang 10
- Từ trang 11 đến trang 20
- Từ trang 21 đến trang 31
- Từ trang 33 đến trang 42
- Từ trang 43 đến trang 53
- Từ trang 54 đến trang 64
- Từ trang 65 đến trang 76
- Từ trang 77 đến trang 86
- Từ trang 87 đến trang 96
- Từ trang 97 đến trang 106
- Từ trang 107 đến trang 117
- Từ trang 118 đến trang 128
- Từ trang 129 đến trang 139
- Từ trang 140 đến trang 150
- Từ trang 151 đến trang 162
- Từ trang 163 đến trang 173
BẾ-BỒNG
"Thế-gian sẽ biết Thánh tài,
Bế-bồng con dại hát bài khải ca."
(02.ThuDaCuoi-343-V1-080)
BẾ CHÍ
"Thể-thống Thần Tiên kiên bế chí,
Tương-đồng sanh-chúng gội ma-ha."
(02.ĐeChonĐatBac-264-V1-228)
BẾ CỬA
"Tăng-sĩ quyết chùa , am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông-pha."
(07.TangthisiVietChau-431-V1-013)
BẾ HỘ
"Gia vô bế hộ im-lìm,
Lập thành mối Đạo rõ điềm xưa kia."
(01.ThienLyCa-201-V0-113)
"Chất âm, thinh, sắc phi tiêu diệt,
Bài phỏng liêm-gia bế hộ nguyên."
(02.xhHuynhHHoa.B3.h-240-V1-006)
BỆ
BỆ-NGỌC
"Ai muốn gần bệ-ngọc các lân,
Thì phải rán lập thân nuôi chí."
(01.ThienLyCa-204-V1-193)
"Tạm đây ta mắc lui hài,
Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui."
(02.TuGiaBonĐao-284-V1-010)
"Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân,
Cảnh phú-quí nhờ ơn Phật-Tổ."
(Q2.KDNK-057-V1-155)
"Lại được gần Bệ-Ngọc Long-Xa,
Coi chư-quốc tranh-giành châu-báu."
(Q2.KDNK-058-V1-187)
BỆ-NGỌC CÁC-LÂN
"Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân,
Cảnh phú-quí nhờ ơn Phật-Tổ."
(Q2.KDNK-057-V1-155)
BỆ RỒNG
"Thời buổi ấy vua ưa người Đạo,
Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng."
(Q5.KT-121-V1-180)
BÊN
BÊN CHỒNG
"Cơn nầy bố-thí cho xong,
Để khi nhắm mắt bên chồng giành chia."
(02.KGiauLPhuocThien-271-V1-028)
BÊN LẦU
"Lòng những hiến thân mưu độc-lập,
Nào hay tai-họa áp bên lầu."
(08.TgSungBenLau-433-V1-004)
"Bên lầu tiếng súng nổ vang tai,
Trời đất phụ chi kẻ trí tài."
(08.TgSungBenLau-433-V1-005)
"TIẾNG SÚNG BÊN LẦU
(08.TgSungBenLau-433-V2-000)
BÊN LƯNG
"Thơ với phú Thần Tiên giáng bút,
Bởi cơ trời đà thúc bên lưng."
(02.ĐeChonĐatBac-266-V1-289)
"Nuôi tằm ắt được nên tơ,
Nếu ta làm phải phước hờ bên lưng."
(02.TuGLgNhonNghia-329-V1-120)
BÊN MÌNH
"Tỉnh say trong giấc mộng hoa,
Mơ-màng cũng tưởng như ta bên mình."
(02.TuGiaBonĐao-287-V1-078)
"Để ma bịnh theo hờ bén gót,
Thần chết kia ôm hót bên mình."
(02.ThuDaCuoi-345-V1-134)
BÊN NHÀ
"Đầu canh tiếng động bên nhà,
Chờ ba canh một thì gà gáy tan."
(02.TuThan-351-V1-035)
BÊN RỪNG
"Gió hiu-hắt bên rừng quạnh-quẻ,
Nhìn non-sông đượm vẻ tang-thương."
(07.TuThan-432-V1-001)
"Bên rừng tạm gởi thân cô quạnh,
Nhìn thấy non-sông suối lệ trào."
(08.RiengToi-435-V1-003)
BÊN TAI
"Mắt nhìn ngoại-quốc thảm-thê,
Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai."
(02.ĐeChonĐatBac-267-V1-307)
"Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo,
Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han."
(02.SaĐec-300-V1-053)
"Canh tràng thổn-thức đứng nằm,
Phiền-ba xe ngựa ù-ầm bên tai."
(02.ThuDaCuoi-341-V1-004)
"Chuông linh giục-thúc bên tai,
Chúc cầu thạnh-trị thới-lai xóm làng."
(02.VLangMHĐ-244-V1-019)
BÊN TÀU
"Có nhiều chệt khách Minh-hương,
Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu."
(02.ĐeChonĐatBac-259-V1-078)
"Dương-trần bụng dạ nhiều màu,
Thấy cảnh bên Tàu sao chẳng nghĩ-suy."
(Q1.SGKNĐ-028-V1-120)
"Hát mà trong bụng xáo-xào,
Nói chuyện bên Tàu máu đổ tuôn rơi."
(Q1.SGKNĐ-047-V1-800)
BÊN THẦY
"Điên đây vưng lịnh Phương Tây,
Hầu hạ bên Thầy đặng cứu bá-gia."
(Q1.SGKNĐ-049-V1-876)
"Kể từ hầu hạ bên Thầy,
Vào ra chầu-chực đài mây cũng gần."
(Q3.SG-071-V1-091)
BỀN
BỀN CHÍ
"Gội ơn Trời độ khỏi sai-lầm,
Xin giúp chí bền, chí dục tâm."
(01.ThienLyCa-202-V0-140)
"Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí,
Rán nghĩ-suy bền chí mới mầu."
(01.ThienLyCa-204-V1-186)
"Xét suy cho cạn cổ-kim,
Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn."
(02.ĐeChonĐatBac-263-V1-192)
"Một phen nợ nước lâm đền,
Đạo làm thần-tử cho bền chí trai."
(0K.NoNuoc-457-V1-002)
"Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả."
(Q5.KT-132-V1-558)
BỀN GAN
"Ai giàu có thung-dung thanh nhã,
Ta lo đời sắt-đá bền gan."
(02.DenLgNhonNghia-307-V1-085)
"Đạo bè-bạn bất phân nhơn với ngã,
Chữ nghĩa-tình sắt-đá mãi bền gan."
(02.KhongBuonNgu-340-V1-063)
"Bền gan chờ đợi ngày sum-hiệp,
Gắng chí trông mong bữa tiệc khai."
(02.TinhBanTGian-354-V1-077)
"Muốn xem bốn chữ Long-Châu,
Bền gan sắt-đá sồng-nâu tu-trì."
(02.TuGiaBonĐao-286-V1-060)
"Thân nầy đã ngấm trầm nhang,
Vui câu bác-ái bền gan đợi chờ."
(02.TuThan-351-V1-044)
"Dặn lòng con hãy bền gan dạ,
Sẵn dịp dân lành rõ Phật Tiên."
(02.xhNgThTanXno.B2.h-309-V1-027)
"Một năm qua bền gan không nao-núng,
Dù thảo-lương thiếu túng chịu gian-nan."
(09.KNRungChaLa-454-V1-010)
"Dầu ai có bền gan sắt-đá,
Cũng động lòng trước cảnh ngửa-nghiêng."
(Q5.KT-118-V1-083)
BỀN LÒNG
"Lúc áo-não cội thung lo-liệu,
Gắng bền lòng bận-bịu vì ai."
(01.ThienLyCa-206-V1-246)
"Chặt dạ tinh-thần thêm mập khá,
Bền lòng khí-lực tráng nguơn nhiên."
(02.choHBoTHANH-314-V1-046)
"Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,
Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt."
(02.DieuPhapQMinh-293-V1-095)
"Tây-Phương Cực-Lạc Phật hằng-hà,
Ta rán bền lòng Phật chẳng xa."
(02.MRoĐaoMau-280-V1-010)
"Nếu bền lòng vị-quả cao thăng,
Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật Thánh."
(02.SaĐec-299-V1-043)
"Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh,
Phải bền lòng mới rảnh trần-ai."
(02.SaĐec-299-V1-046)
"Đường đạo-lý chớ nên chán-nản,
Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm."
(Q2.KDNK-065-V1-438)
"Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,
Bền lòng niệm Phật thì sau thanh-nhàn."
(Q3.SG-081-V1-460)
"Trong bổn-đạo cùng là sư-vãi,
Rán bền lòng cho được hiền từ."
(Q4.GMTK-102-V1-488)
BỀN VỮNG
"Muốn Phật-Giáo từ đây bền vững,
Đừng riêng lo lợi-dưỡng một mình."
(Q5.KT-136-V1-671)
BẾN
BẾN BỜ
"Tượng xưa dấu cũ còn mờ,
Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương."
(02.DanDoBonDao-276-V1-044)
"Nếu không, gặp cảnh bơ-vơ,
Thuyền ghe chẳng có bến bờ cũng không."
(02.TuGLgNhonNghia-327-V1-052)
BẾN GIÁC
"Bến giác bờ mê, mê phải tránh,
Ly-biệt hồng-trần hỡi ai ôi!"
(02.ĐeChonĐatBac-265-V1-240)
"Ma-ha thoàn nhỏ dọn rồi đa,
Bước xuống đi qua bến giác mà."
(02.ToiMongMot-234-V1-034)
"Bây giờ Lão lại thúc đò,
Đưa qua bến giác dông to tới nhà."
(02.TuGLgNhonNghia-328-V1-058)
"Bến giác Thần, Tiên mau chực sẵn,
Bể mê phàm-tục phải cao bay."
(02.ThanDoi-346-V1-011)
"Tâm chay hậu-tấn rán tu thân,
Bến giác chẳng xa cũng chẳng gần."
(05.NhanĐoiThoiCo-406-V1-024)
"Thả thuyền-từ bến-giác nâng-niu,
Kẻ hiểu Đạo mau-mau bước xuống."
(Q4.GMTK-111-V1-817)
BẾN-LỨC
"Khỏi đây đến chỗ bộn-bề,
Rõ-ràng Bến-Lức đã kề bên ghe."
(Q1.SGKNĐ-038-V1-474)
BẾN NƯỚC
"Chọn bến nước rủi may trong đục,
Nếu chần-chờ lục-đục trễ chơn."
(03.VongBhoaN-365-V1-019)
BẾN SÔNG
"Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê."
(02.DieuPhapQMinh-293-V1-114)
"Xong cầu bờ giác bến sông mê,
Thế-sự nhân-sanh hết nhún trề."
(05.NhanĐoiThoiCo-407-V1-039)
BẾN-THÀNH
"Bến-Thành đến đó đậu liền,
Gặp hai thằng lính tra liền thuế thân."
(Q1.SGKNĐ-039-V1-503)
BẾN-TRE
"Chợ quê giảng-dạy đã xong,
Thuyền-loan trực-chỉ đến rày Bến-Tre."
(Q1.SGKNĐ-040-V1-550)
"Dạo cùng khắp tỉnh Bến-Tre,
Đủ bực thơ vè lìa lại Trà-Vinh."
(Q1.SGKNĐ-040-V1-565)
BI
BI AI
"Chợt ngó xuân sang xuân biết khóc,
Đến thời Thiên-định lối bi ai!"
(01.29ThangChap-224-V1-008)
"Đêm vắng mà sao cảm quá dài,
Văn-nhu lão trưởng tiếng bi-ai."
(02.choThay3Than-254-V1-002)
"Hò-hẹn Phật Tiên hiệp một ngày,
Một ngày thế-giới khỏi bi-ai."
(02.ĐauNam-232-V1-026)
"Để đến việc thảm-thê, thê-thảm,
Mắt phàm-trần tường-lãm bi-ai."
(02.ĐeChonĐatBac-266-V1-285)
"Lúc nầy thế-giới bi-ai,
Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm."
(Q1.SGKNĐ-032-V1-261)
BI-ĐỘNG
"Bi-động từ-tâm gọi mấy lời,
Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi."
(01.LoChutCoHuyen-186-V1-025)
BI HIỆN
"Lôi chất khai âm vô sắc thí,
Ngại hồi bi hiện án tiền phi."
(02.ĐeChonĐatBac-261-V1-124)
BI HOAN
"Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,
Đời cùng Đạo bi hoan, ly hiệp."
(02.NangThoCamTu-320-V1-104)
BI LY
"Hồi đầu điểm Đạo chuyển phong cương,
Háo-thắng bi ly đạo khổ tường."
(02.xhHuynhHHoa.B5.h-241-V1-002)
BI-THỐNG
"Ta kể sơ những điều bi-thống,
Mẹ no cơm chật-chội khó-khăn."
(Q5.KT-124-V1-289)
BỈ
BỈ-BẠC
"Mặc tình nghe phải thì dùng,
Chớ đừng bỉ-bạc kẻ Khùng làm chi."
(02.VLangPhuAn-253-V1-056)
BỈ-BÀNG
"Người sao lại bỉ-bàng tôm cá,
Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng."
(02.BongHong-334-V1-015)
BỈ NGẠN
"Hoạch thắng thiện-căn,
Chí pháp bỉ ngạn."
(04.CauChu.C10.han-394-V2-004)
BĨ
BĨ CỰC
"Xây-vần trời đất tiết thì,
Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai."
(02.KGiauLPhuocThien-272-V1-046)
"Nhẫn nhẫn cho rồi câu bĩ-cực,
Thời lai sẽ được cảnh tiêu-dao."
(03.MayĐToLong-364-V1-007)
BÍ
BÍ DANH
"Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên,
Sơn-Trung hồi giả bí danh tiên."
(02.xhNgKyTran.B1.h-249-V1-002)
BÍ-HIỂM
"Lam thất thanh chơn hà khuyết Đạo,
Qui-hồi bí-hiểm trị nhơn-tâm."
(02.xhHuynhHHoa.B1.h-238-V1-004)
"Bí-hiểm cơ-huyền nơi diệu-lý,
Nhiệm-mầu Phật-pháp chốn thần-thông."
(0K.cho1ViSoTam-460-V1-003)
"Chuyện huyền-cơ bí-hiểm cao-sâu,
Hãy nghiệm xét hai đường tà chánh."
(Q2.KDNK-065-V1-423)
BÍ KHUYẾT
"Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,
Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa."
(02.ĐeChonĐatBac-260-V1-112)
"Thuấn-Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển,
Phật Lão hư không bí khuyết thầm."
(02.xhHuynhHHoa.B1.x-238-V2-006)
BÍ-MẬT
"Giục-thúc đạo-đồng kiến thúy-quyên,
Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền."
(01.VenManBiMat-210-V1-001)
"VÉN MÀN BÍ-MẬT
(01.VenManBiMat-210-V2-000)
BỊ
BỊ GƯƠM
"Kẻ gian-ác bị gươm ba thước,
Nơi pháp-tràng trị kẻ hung-đồ."
(Q2.KDNK-056-V1-113)
BỊ HẠI
"Nếu tranh-đương ắt ta bị hại,
Thêm sa-cơ lại bị xích-xiềng."
(Q4.GMTK-104-V1-555)
BỊ LỬA
"Ghét bạo chúa là xưa Trụ-Kiệt,
Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu."
(Q2.KDNK-056-V1-122)
"Kẻ tà-gian sau bị lửa thiêu,
Người tu-niệm sống đời thượng-cổ."
(Q2.KDNK-061-V1-303)
BỊ TRỊ
"Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng:
Thà cam chết, không làm dân bị trị."
(09.TangcsBinhXuyen-452-V1-024)
BIA
BIA DANH
"Đạo-đức bao nhiêu dám gọi Thần,
Bia danh mô-phạm để lừa dân."
(02.xhGiaoXoai.B1.x-235-V2-002)
BÌA
BÌA TRẮNG
"Giấy vàng nay đã giá cao thăng,
Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn."
(02.GiayVang-312-V1-002)
BÍCH
BÍCH-LƯ
"Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,
Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa."
(02.ĐeChonĐatBac-260-V1-112)
BIẾM
BIẾM ĐỜI
"Khôn-ngoan nghe nói ngẩn-ngơ,
Ngu-si thì tưởng như thơ biếm đời."
(Q3.SG-080-V1-400)
"Lời chơn-chánh hình như nói xỏ,
Mà không không nào có biếm đời."
(Q4.GMTK-100-V1-420)
BIẾM-NHẺ
"Mặc ai biếm-nhẻ gần xa,
Lòng ta ta biết ai mà mặc ai."
(01.ThienLyCa-204-V1-199)
"Dương-trần biếm-nhẻ gần xa,
Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm."
(Q1.SGKNĐ-027-V1-085)
"Dương-trần nhiều kẻ ham sân,
Cứ theo biếm-nhẻ xa gần người Điên."
(Q1.SGKNĐ-031-V1-220)
"Thần-Tiên mà chẳng ai hay,
Cứ biếm-nhẻ hoài buồn dạ người xưa."
(Q1.SGKNĐ-043-V1-662)
"Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền,
Mà dương-thế cứ theo biếm-nhẻ."
(Q2.KDNK-054-V1-060)