- Quyển I Khuyên Người Đời Tu-Niệm
- Quyển II Kệ Dân Của Người Khùng
- Quyển III Sám Giảng
- Quyển IV Giác Mê Tâm Kệ
- Quyển V Lời Khuyến Thiện Của Ông Vô Danh Cư Sĩ
- Quyển VI Cách Tu Hiền và Sự Ăn Ở của Một Người Bổn-Đạo
- DIỆU-PHÁP QUANG-MINH
- THIÊN LÝ CA
- ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC
- "TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ"
- PHẬT LÀ GÌ?
- CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI-ĐỨC
- ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH
- THẬP NHỊ NHƠN-DUYÊN
- MÔN HOÀN DIỆT
DIỆU-PHÁP QUANG-MINH
(Khùng
Điên tự cảm tác)
(244 câu)
Gươm
trí-huệ
từ-bi chớp nhoáng,
Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn.
Ta thừa vưng
sắc lịnh Thế-Tôn,
Khắp hạ-giái truyền
khai đạo-pháp.
Tùy
phong-hóa dân-sanh phù-hạp,
Chấp bút
thần tả ít bổn kinh.
Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh,
Tri phong-võ bất
kỳ chuyển kiếp.
Giống
Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp,
Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn.
Từ ngàn xưa Phật-pháp
gài then,
Nên ít kẻ tu hành đắc Đạo.
Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo,
Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng.
Hiệu Điên
Khùng ban rải dư muôn,
Khùng đạo-đức
Khùng câu tuyệt-diệu.
Khùng
toán biết âm-dương kết-liễu,
Khùng huyền-cơ
Khùng Đạo
Thích-Ca.
Hươi bút thần dẹp lũ cáo-xà,
Loài độc-địa toan trừ dứt nọc.
Noi tục cổ xác Khùng để tóc,
Phải đua chen tập
tánh ông cha.
Mong
dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha,
Trừ vật-dục trì
chơn bất hoại.
Cặp
mắt Thánh
dòm xem tứ hải,
Thương hồng-trần mượn xác tái sanh.
Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh,
Nên cấu xé cùng nhau thảm-não.
Sá
chi kẻ ngu si khinh-ngạo,
Vì trên đời nhiều hạng khác nhau.
Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao,
Người bội phản ghét-vơ đạo-lý.
Khùng
cảm mến truyền câu hồi vị,
Thà làm hiền
mà biết non sông.
Điên như ta Điên
giống Tiên Rồng,
Điên gở ách xích-xiềng thế tục.
Chuông Linh-khứu ba hồi giục-thúc,
Đờn Lôi-âm
khởi điệu êm tai.
Con lành duyên khá trở gót hài,
Điên quyết chí dắt người lánh tục.
Đạo mở cửa bày câu minh mục,
Nước ma-ha tưới
tắt lòng phàm.
Cõi
Trung-Ương luân chuyển phương Nam,
Mở hội Thánh chọn
người trung hiếu.
Tử
vì nước còn ghi linh miếu, (1)
Thác vì đời thanh-sử danh bia.
Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia,
Tuy thô-kịch mà tâm
chánh-trực.
Nước
văn-minh chê đồ ấy nực,
Mảng trau-tria xác thịt thanh bai.
Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai,
Về Tiên cảnh
say mùi rượu Thánh.
Chén quỳnh tương gác đều gai ngạnh,
Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ.
Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ,
Bày thi phú
than qua thời thế.
Xuống dương-gian thân Điên nào nệ,
Chốn hồng trần đuốc
huệ liền khai.
Cho nam-nhi sửa mặt râu mày,
Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.
Rán
bắt chước
những trang tuấn-kiệt,
Gái anh hùng
xưa có Trưng-Vương.
Đuổi quân
Tàu cứu vớt quê-hương,(1)
Rửa xong hận thù chồng dốc trả.
Xưa
Châu-Xáng thanh long phải tá,
Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên.
Nói cho đời rõ biết Khùng Điên,
Điên vận bĩ điên
câu ái quốc.
Viết
một ngọn lưỡi nầy một tấc,
Đem Đạo lành
ban rải nơi nơi.
Mảng chờ trông bá tánh thảnh-thơi,
Khắp bốn biển liên
dây hòa-hảo.
Rừng
bác-ái điên đời biến ảo,
Điên như ta vì
Đạo vì dân.
Điên tu cầu
Quân thánh rải ân,
Cho bốn biển dân
lành được hưởng.
Điên
dẹp gác
âm thinh sắc tướng,
Tầm vô vi
kiếm cảnh Niết-Bàn.
Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang,
Qua Đông-độ vớt người hữu đức.
Bể
ái hà gươm linh sớm dứt,
Lòng bồ-đề
sắt đá dám kình.
Cả tiếng kêu lớn
nhỏ đệ-huynh,
Noi chí ấy sửa-sang thời-thế.
Trời
quá buổi chinh chinh vừa xế,
Chờ ít lâu cũng lặn về Tây.
Lúc
huỳnh-hôn đèn trí soi đầy,
Tìm nẻo
thẳng đi về Cực-Lạc.
Điên
đàm luận
ít câu dốt nát,
Mong chị anh bàn-bạc
thể-nào?
Lời văn thô ý-kiến chẳng cao,
Nội
quang-cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường
đạo-đức bước đi từ nấc,
Ngoại quan
hình bất chấp kỳ hình.
Phải bền
lòng chặt nẻo sắt đinh,
Rán kiếm chữ
bất sanh bất diệt.
Chúng-sanh mê nên đem pháp
thuyết,
Giải thoát rồi pháp bất khả dùng.
Nương
gia-đình kính trọng cội thung,
Lo nưng đỡ
trong ngày tuổi hạc.
Thân
Điên Khùng thế-gian
tạm xác,
Chén rượu nồng chẳng nếm mà say.
Say lê-mê lết-mết tối ngày,
Say đạo pháp
say mùi hương khói.
Biết
chừng nào chúng-sanh vượt khỏi,
Bể ái hà rứt
bỏ vẹn lau.
Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào,
Trần-Di ngủ say câu thành tựu.
Quyết
đưa chúng về nơi
non Thứu,
Tạo Lư-bồng
ngõ hội quần Tiên.
Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền,
Câu không ngạnh chờ non phụng gáy.
Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái,
Quyết đưa
người khỏi bến sông mê.
Nên phải đành mang
lốt làm hề,
Mặc bá tánh khen
chê cũng phải.
Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại,
Dốc làm sao rõ mặt tang bồng.
Nghiên hai vai gánh
nặng non sông,
Vớt trăm họ
lầm than bể khổ.
Ví
như loại sanh
cầm hồ thố,
Còn thương
nhau lại huống chi người.
Đứa hai lòng sao chẳng hổ ngươi,
Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ.
Dấu
bút tích tuông bay theo gió,
Học sách chi phỉ báng ông cha.
Thấy dân tình xem
giảng ngâm nga,
Lão xót dạ
đôi lời trần tố.
Đức Khổng-Thánh người sanh nước Lỗ,
Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ.
Sá chi lời đạo-chích tục thô,
Kẻ ngu xuẫn khi người nhân đức.
Danh
hiền-sĩ non sông náo-nức,
Giả như hồi Chiến-Quốc
Xuân-Thu.
Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du,
Lúc thập bát chư hầu rối loạn.
Bực Thánh-nhơn công lao chẳng chán,
Huống chi ta
nào dám than-van.
Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,
Nên
tỏ ý khắp nơi đặng biết.
Coi
ai có chứa bầu nhiệt huyết,
Dùng đạo mầu
cứu vớt sanh-linh.
Nếu để chờ sấm
nổ vang thinh,
E bá tánh ăn-năn đã muộn.
Giảng với kệ ra đà bốn cuốn,
Ít có người khám rõ cơ huyền.
Ta dừng tay chờ
đợi lịnh Thiên,
Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng.
Đêm
dài-dặn cạn dầu tim lụn,
Chẳng thấy ai tìm
kiếm bóng trăng.
Để làm cho mích bụng chị Hằng,
Nơi cung nguyệt chờ
trông mõn dạ.
Thiếu
chi kẻ đặng chim bẻ ná,
Hiếm bao người đặng cá quên nôm.
Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,
Chăng thèm kể cha hiền trông đợi.
Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi,
Nỡ phụ-phàng vua
Tống-Khâm-Tôn.
Xem truyện xưa mà bắt hết hồn,
Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ.
Gã Tần-Cối ít ai còn lạ,
Dụng mưu thần giết thác Nhạc-Phi.
Thương
trung thần ghét nịnh mặt lỳ,
Dám thiết kế hại tôi lương-đống.
Thuở
Hiến-Đế
có nhà họ Đổng,
Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san.
Nhờ Tư-Đồ
thiết lập Liên-hoàn,
Nghiệp nhà Hớn mới an một lúc,
Cảnh
gian nan như Lưu-Hoàng-Thúc,
Qua ở nhờ Viên-Thiệu
dung thân.
Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa ân,
Vượt năm ải về thăm huynh trưởng.
Kẻ
nghỉa khí thiên kim vạn lượng,
Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen.
Xem tích xưa thẹn với bóng đèn,
Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa.
Coi
sự sống như Tiên nưa nửa,
Mê mồi thơm như cá lục-châu.
Sao chẳng lo
thức tỉnh quày đầu,
Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ.
Cấp-cô-Độc là nhà bá hộ,
Còn
đành lòng bố
thí xã thân.
Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần,
Miễn hiểu đạo hơn là châu báu.
Chẳng
sớm lo chần-chờ sợ Lão,
E sau nầy tâm não đoạn trường.
Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương,
Trời đất xử những người bội phản.
Phải
chỗi dậy nương dày hùng-tráng,
Chữ đại hùng
đại lực từ-bi.
Vậy mới trang quân-tử
nam-nhi,
Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.
Đời
cũng lắm bao người giá áo,
Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm.
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.
Ngọn
bút sắt chỉ
đường người tối,
Gậy kim-cang đưa
chúng lên đàng.
Kíp nương theo trực chỉ Tây-phang,
Đến cực-lạc
tìm nơi an dưỡng.
Dẹp
cầy cáo dùng cây thiền-trượng,
Lánh ta bà cõi thế đua chen.
Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn,
Bạn phản bạn như ngươi Bùi-Kiệm.
Trên
mặt đất hạng người ấy hiếm,
Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng.
Nhìn Trịnh-Hâm
lão bắt mủi lòng,
Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh.
Viết
ít câu cho đời ngâm vịnh,
Phận tài sơ xin
hãy thứ tha.
Yêu
nhơn-sanh trổi giọng hùng ca,
Tạm nghiêng bút vẽ
tranh thế tạo.
Trong
bá tánh nhìn xem châu đáo,
Chớ vội vàng chê
Lão ngu-si.
Rạch lang tâm những đứa vô nghì,
Nhắc sơ tích
người xưa trong sử.
Khuyên bá-tánh vạn-dân gìn-giữ,
Lão chúc cầu thiên-hạ
thái-bình.
Đứng trung cang hành
thiện truy kinh,
Mong trên dưới cùng
nhau thảo-thuận.
Đã
thấy lộ cơ trời báo ứng,
Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.
Nợ
hồng-trần túc trái tiền khiên,
Ta quyết dẹp cứu nàn dương thế,
Noi
chí đức Hoàng
Thang luật chế,
Đời không hay những việc xa vời.
Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi,
Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón.
Cảnh
thế tạo càng ngày thỏn-mỏn,
Giống vi-trùng thường đục phổi tim.
Đến cơn đau phương thuốc phải tìm,
Gặp Biến-Thuốc, Hoa-Đà lai thế.
Kim
với cổ nhìn xem thế-hệ,
Sợ có ngày hoạch tội ư thiên.
Nẻo đục trong cạn
tỏ cơ-huyền,
Mực đã cạn lòng
yêu chẳng mãn.
Ai
coi qua xin
đừng bỏ lảng,
Gắng
công-trình vạch lá tìm sâu.
Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu,
Phải sớm hứng giọt sương Đông-hạ.
Điên
nhơn-nghĩa
điên vì đạo
cả,
Thôi chào đời khép
cửa buồn duyên.
Có thiện-căn
sớm lại cửa thiền,
Câu niệm
Phật chờ ngày chung cuộc.
Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát.
Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn