- MỤC LỤC
- 1- Tìm hiểu Ý nghĩa chữ THIỆN CĂN
- 2- Tìm hiểu về bài thơ Bát Nhẫn
- 3- NHẪN
- 4- VÔ VI
- 5- PHÁP THÂN và PHÁP THÍ
- 6- TU KHÔNG TU
- 7- Ý NGHIỆP
- 8- Tứ Cú Kệ
- 9- Quy y thì phải làm y
- 10- Chánh pháp tà pháp
- 11- Tướng và vô tướng
- 12- Tự Tánh
- 13- Đạo
- 14- Tìm hiểu tám mươi bốn ngàn pháp môn
- 15- Gài then mở then
- 16- Niết bàn
- 17- Tìm hiểu nghĩa chữ GIÁC MÊ
- 18- Thuyết Pháp
- 19- Chớ lìa NHÂN NGÃ, SẮC KHÔNG
- 20- 2013 Xuân Quí Tỵ
- 21- Mười món MA về sắc ấm
- 23- Xuất Gia Tại Gia
- 24- Vũ Trụ Quan, Nhân Sinh Quan PGHH
- 24- Niết Bàn
- 25. Tìm hiểu Ý nghĩa chữ QUANG MINH
Nhân dịp xuân về, kính chúc chư quí Phật tử và đồng ĐẠO PGHH thân thương được phát tâm Bồ đề và Vạn an, Hạnh phúc.
Kính thưa chư Quí vị.
Chúng ta đã và đang học Giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vì vậy, chúng tôi xin trích lục sự chia ly ngậm ngùi của Đức Phật, sau khi thành Đạo với 49 năm thuyết Pháp độ đời, tại rừng cây Ta la song thọ.
Trước khi nhập Niết Bàn
1.- Phật báo tin sắp lìa cõi đời.
Khi giác hạnh của Ngài đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Đến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy vào Hạ ở rừng cây Sa la trong xứ Câu ly, cách thành Ba la nại chùng 120 dặm.
Một hôm, Ngài gọi ông A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và bảo:
“A Nan ! Đạo ta đã viên mãn. Như nguyện xưa, nay Ta có đủ 4 hạng đệ tử : Tỳ Kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di. Nhiều đệ tử có thể thay Ta chuyển xe Pháp và Đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cỗ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở Pháp, nay xe cũng vừa mòn mà Pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm gì trong cái thân tiều tụy nầy nữa ? Trong 3 tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”.
Tin Đức Phật vào Niết bàn lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về cùng đấng Giác ngộ chia ly lần cuối.
Trong thời gian 3 tháng cuối cùng của Ngài, Đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục truyền Đạo.
Một hôm, Ngài đi thuyết Pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Đà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng cùng các đệ tử đi theo ông. Đến nhà, ông Thuần Đà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm, thường gọi là nấm heo rừng, vì thứ nấm nầy rất được giống heo rừng ưa thích.
Thụ trai xong, Phật cùng đệ tử lại từ giã ông Thuần Đà ra đi. Được một khoảng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên trong rừng cây Ta la để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng giữa hai cây Ta la, đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về phía mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.
Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu bạt đà la đến xin thọ giới Sa di với Ngài. Ngài hoan hỷ nhận lời. Đó là người đệ tử sau cùng trong đời Ngài.
2.- Phật nói Kinh Di giáo và những lời phú chúc.
Lúc bấy giờ các đệ tử Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp vì đi thuyết Pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và Tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau :
a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.
b) Các đệ tử phải lấy Giới luật làm Thầy.
c) Ở đầu các Kinh, phải nêu lên 4 chữ : “ Như thị ngã văn”.
d) Xá lợi của Ngài sẽ chia ra làm 3 phần :
- Một phần cho Thiên cung,
- Một phần cho Long cung,
- Một phần chia cho tám vị Quốc vương ở Ấn Độ.
Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng :
-“Nầy ! Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi ! Các người hãy lấy Pháp của Ta mà làm đuốc ! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát ! Đừng tìm một sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm một sự giải thoát một nơi nào khác, ngoài các người!...”.
Nầy ! Các người đừng dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có Đạo Ta là quí báu. Chỉ có chân lý của Đạo Ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tấn lên để gỉải thoát, hỡi các người rất thân yêu của Ta !” .
Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm tháng 2 Âm lịch (theo Giáo sử Trung hoa).
Rừng cây Ta la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lắng trong những giây phút nặng nề của sự chia ly.
Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vào Kim quang và bảy ngày sau, đưa kim quang Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).
(Trích Phật Học Phổ Thông của HT. Thích Thiện Hoa)
“Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng,
Với tín nữ thiện nam Phật giáo.
Nên cố gắng trau thân gìn Đạo,
Hiệp cùng nhau truyền bá kinh lành.
Làm cho đời hiểu rõ thinh danh,
Công Đức Phật Từ bi vô lượng.”
(Đức Huỳnh Giáo Chủ, Khuyến Thiện, Q.5)
Nam Mô A Di Đà Phật !
TRƯƠNG VĂN THẠO
Gửi ý kiến của bạn